top of page
Tìm kiếm

Con người Nguyễn Trãi qua "Bình Ngô Đại Cáo" và "Quốc Âm Thị Tập"

  • Ảnh của tác giả: KHOA NGOAI
    KHOA NGOAI
  • 22 thg 9
  • 15 phút đọc
ree

I. ĐẶT VẤN ĐỀ


“Nguyễn Trãi là khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn trãi là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc.” (Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng). Có thể thấy rằng, thiên tài của Nguyễn Trãi là sản phẩm của phong trào đấu tranh anh dũng của dân tộc, người đã cắm một mốc quan trọng trên con đường phát triển của dân tộc ta.. Tinh thần dân tộc, ý thức tự hào dân tộc, niềm mong muốn xây dựng một nền văn hoá dân tộc ngày càng rực rỡ, đó vẫn là cốt lõi lý tưởng của Nguyễn Trãi. Với lý tưởng ấy, Nguyễn Trãi đã được ví như ngôi sao Khuê trong lịch sử dân tộc Việt. Vị trí của ông trong lịch sử văn học nước nhà đã được nhiều thế hệ công nhận, và chúng ta ngày nay lại càng khẳng định mạnh mẽ vai trò đó, vị trí đó của ông.

Nguyễn Trãi còn hiện thân cho một bước phát triển nhảy vọt kì diệu và trở thành người mở đầu cho nền văn học cận – hiện đại của Việt Nam. Các nhà nghiên cứu văn học, phê bình và lý luận văn học đã nghiên cứu rất nhiều những trước tác và sáng tác của Nguyễn Trãi như một nghệ sĩ ngôn từ của văn học trung đại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã chú ý đúng mức đến vấn đề thể loại, đến văn chương được viết bằng chữ Hán và văn chương được viết bằng chữ Nôm, đến văn chương chính luận, văn sử bút, văn địa chí và văn chương hình tượng; sự thống nhất, sự đồng dị của chúng ở những trước tác và sáng tác của ông. Các nhà nghiên cứu cũng thấy rõ nơi con người trước tác và sáng tác Nguyễn Trãi có nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà thơ; ba nhà ấy là thống nhất trong Nguyễn Trãi. Một vĩ nhân như thế không phải chỉ riêng về một thời đại hay một dân tộc mà là của toàn nhân loại. Tổng giám đốc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) cũng trân trọng đánh giá Nguyễn Trãi là “Sứ giả của dân tộc Việt Nam”, “Thành viên kiệt xuất của cộng đồng loài người”, và đi đến khẳng định: “Sáu trăm năm sau, nỗi thao thức canh cánh của nhà hành động và nhà thơ Nguyễn Trãi vẫn là nỗi thao thức canh cánh bên lòng của tất cả những yêu công lý và nhân đạo trên đời nay”. Qua đó, để hiểu thêm về Nguyễn Trãi và con người ông, độc giả cần có sự nghiên cứu về những tác phẩm nơi “ý thức dân tộc hoá văn chương, nhân dân hoá thơ ca" của Nguyễn Trãi.


II. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP VĂN HỌC NGUYỄN TRÃI


1. Cuộc đời Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi tên hiệu Ức Trai, sinh năm 1380, quê quán thôn Chi Ngại, xã Cộng Hoà Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập, nổi tiếng là một người học rộng, am hiểu về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân.

Năm 1400, Nguyễn Trãi đi thi Đình, đỗ Thái học sinh khoa thi đầu tiên dưới triều nhà Hồ, năm sau được cử giữ chức Ngự sử đài Chánh chưởng. Trở về Đông Quan, ông sống lẩn khuất trong nhân dân để tránh sự truy bắt của quân Minh, ngày đêm nung nấu ý chí “đền nợ nước, báo thù nhà”. Khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi bèn trốn khỏi Đông Quan tìm vào Thanh Hoá gặp Lê Lợi, dâng “Bình Ngô sách”, được Lê Lợi trọng dụng. Trải qua biết bao gian khổ, cuối cùng Nguyễn Trãi đã thực hiện được ước mơ cháy bỏng của ông: đánh đuổi được giặc Minh, mang lại độc lập cho đất nước năm 1427.

Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào thực hiện hoài bão xây dựng đất nước thái bình thịnh trị, vua hoà dân mục, thì bỗng dưng bị chặn lại: ông bị nghi oan và bị bắt giam. Sau đó, ông được tha nhưng không được tin dùng nữa. Gần cuối đời, có thể nói, Nguyễn Trãi gặp nhiều bi kịch, vì thế mà ông xin về Côn Sơn làm bạn với với trăng thanh gió mát, vui thú với tùng với mai, thi thoảng mới về Thăng Long khi triều đình có việc cần. Đến năm 1440, lúc này Lê Thái Tông đã trưởng thành, đã dẹp yên bè đãng Lê Sát, nhà vua triệu ông ra làm quan trở lại, dù lần này chức không cao, không to, nhưng Nguyễn Trãi vẫn hăm hở ra, chỉ vì dân vì nước và viết bài Tạ ân biểu nổi tiếng. Cũng vì trở lại lần này mà sau đó ông cùng gia tộc bị cái án oan nghiệt Lệ Chi viên thảm khốc vào tháng 9 năm 1442.


2. Sự nghiệp văn học Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi viết nhiều, có cống hiến ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Có thể nói bút lực của ông phi thường. Tác phẩm của Nguyễn Trãi hầu hết đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi viên. Hiện nay, chỉ còn lại một ít có thể kể tên sau:

- Về văn chính luận:

Bình Ngô đại cáo là kiệt tác bất hủ của Nguyễn Trãi. Với lời văn đầy khí khái, giọng điệu hào hùng, lời lẽ đanh thép, thuyết phục, trâm hùng đã nêu bậc được thắng lợi vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn và hào khí của thời đại. Bình ngô đại cáo xứng đáng là một bản thiên cổ hùng văn còn lưu truyền đến muôn đời.

Quân trung từ mệnh tập là tập văn mang tính luận chiến, nhằm cổ vũ tinh thần quân sĩ và làm nao núng ý chí quân giặc, vừa mang tính thuyết phục, giảng giải cho quân địch thấy rõ lẽ tất yếu phải rút quân và thừa nhận chủ quyền độc lập của Đại Việt. Lập luận sắc bén, văn phong sáng gọn, gợi cảm, có lí, có tình. Tập văn thể hiện sâu sắc tài năng hùng biện và phán đoán tâm lí kẻ địch tài ình của Nguyễn Trãi. Vận dụng chiêu pháp công tâm làm cho quân địch tự tan rã là kế sách tài tình mà không phải ai cũng làm được.

- Về thơ ca:

Tập thơ Ức Trai thi tập gồm 105 bài thơ chữ Hán. ở thơ chữ Hán, Nguyễn trãi không chú trọng đến niêm luật mà phóng khoáng, tự do để biểu đặt được cái hồn của sự vật. Nắm bắt thần thái, trả cảnh vật về với tự nhiên là bút pháp nổi bậc trong văn thơ Nguyễn trãi. Thơ ông tự nhiên, chan hòa sự sống, mang phong thái điềm đạm của một bậc đại nho. Tập thơ Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ Nôm. Đây là tập thơ Nôm đầu tiên và cổ xưa nhất của nước ta còn cho đến ngày nay. Quốc âm thi tập phản ánh sâu sắc quá trình phát triển của chữ Nôm thế kỉ XV. Với tập thơ này, Nguyễn Trãi đánh một móc son rực rỡ trong tiến trình phát triển và hoàn thiện chữ Nôm ở nước ta.

- Về khảo cứu lịch sử:

Bộ lược sử Lam Sơn thực lục là quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn, do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432. Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia ở Vĩnh Lăng – lăng của vua Lê Thái Tổ, kể lại thân thế và sự nghiệp của Lê Thái Tổ.


III. CON NGƯỜI NGUYỄN TRÃI QUA TÁC PHẨM “BÌNH NGÔ ĐẠI CÁO" VÀ

“QUỐC ÂM THI TẬP"


1. Con người đại tài, nhân nghĩa, yêu nước thương dân

Trong tác phẩm Bình Ngô đại cáo cùng với việc khẳng định truyền thống yêu nước, truyền thống văn hóa của dân tộc, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yêu thương con người, là mưu cầu cho hạnh phúc muôn dân. Mở đầu Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi viết:


Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.


Chỗ dựa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi ở đây là dùng lời lẽ của thánh hiền, dùng luận đề của nho giáo “Hàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu”. Nhân nghĩa là “Trên thuận theo lòng hiếu sinh của trời, dưới cứu thoát nhân dân từ trong nước sôi lửa bỏng”. Như vậy nhân nghĩa chính là thương dân, là mong muốn cho dân được hưởng cuộc sông thái bình. Cho nên “Đánh kẻ có tội, cứu vớt nhân dân là thánh nhân làm việc đại nghĩa”. Ngoài ra, ta có thể thấy Nguyễn Trãi đã nêu cao giá trị của truyền thống dựng nước và giữ nước. Tư tưởng yêu nước được thể hiện trước hết ở lý luận về độc lập dân tộc, về chủ quyền quốc gia. Lý luận đó được người Việt Nam nhận thức bổ sung và nâng cao, làm phong phú thêm bằng thực tiễn dựng nước và giữ nước. Ông cha ta luôn khẳng định Việt Nam là một dân tộc có núi sông, bờ cỏi, có lịch sử, có nền văn hiến lâu đời. Đó là điều cốt lõi để khẳng định ý thức tự tôn của một dân tộc, chống lại âm mưu thôn tính, đồng hóa của Trung Quốc, khẳng định sức mạnh quật cường của dân tộc. Trong bài thơ “Thần” Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt đã khảng khái tuyên bố:


Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẵng hành khan thủ bại hư.


Nếu như trong Nam Quốc Sơn Hà, ý thức dân tộc được xác định chủ yếu trên hai yếu tố: lãnh thổ, chủ quyền, mới chỉ dừng lại ở phân chia núi sông bờ cõi, thì đến với Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định thêm ba yếu tố phong tục, văn hiến, lịch sử.


Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Định, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương


Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.


(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)

Qua đây, ta có thể thấy Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thấy được vai trò văn hóa trong việc cấu thành dân tộc; cũng là người đầu tiên khẳng định sự tồn tại độc lập của nền văn hóa Đại Việt, dứt khoát tách khỏi quỹ đạo của văn hóa phương Bắc. Trong quan niệm về độc lập chủ quyền của dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến (Văn: văn chương sách vở...; Hiến: hiền tài hào kiệt) là yếu tố cơ bản nhất để xác định, khẳng định độc lập dân tộc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Đây chính là điều mà kẻ thù luôn luôn phủ định, không thừa nhận và tìm mọi cách xóa bỏ. Nguyên lý về nhân nghĩa phải đứng trên lập trường của chính nghĩa. Khẳng định chân lý độc lập và chủ quyền của dân tộc trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đưa ra những minh chứng đầy sức thuyết phục về sức mạnh của nhân nghĩa, của chân lý:


Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô;

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã ...


Không chỉ thể hiện được con người vì nước vì dân của mình qua Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi còn mạnh mẽ đập tan cái nhiễu nhương mà quân Minh đã để lại trong tư tưởng và đời sống con người đất Việt, đanh thép lên tiếng tuyên bố để “quốc thái dân an", giữ cho Nhân nghĩa luôn trong sáng, không lệch lạc qua những dòng thơ trong Quốc âm thi tập:


Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược

Có nhân, có trí, có anh hùng.


(Bảo kính cảnh giới - bài 5)


Hay:


Lòng thế bạc đen dầu nó biến

Ta gìn nhân nghĩa chớ loàn đơn


(Bảo kính cảnh giới - bài 12)

Toàn bộ thi phẩm của ông là tất cả suy nghiệm của một con người luôn luôn băn khoăn trước tạo vật, luôn luôn phát hiện những hiện tượng biến đổi khôn lường và tìm kiếm những chân lý chưa mấy ai tìm ra trong cuộc sống. Vì thế, trong thơ ông là nỗi niềm thao thức khôn cùng, với bao dấu hỏi về cuộc đời. Đấy là con người hành động trong thơ Nguyễn Trãi, ở những hoàn cảnh nào đấy, là con người tìm thấy hướng đi và đấu tranh không mỏi. Nguyễn Trãi đặt mình trước dân tộc, lịch sử, trước nhân dân để hành động, ông cống hiến “lòng trung" cho dân tộc, vì lẽ đó mà Nguyễn Trãi làm quan chẳng phải vì vụ lợi cá nhân mà bởi vì cái tình thương dân luôn canh cánh trong lòng:


Lòng một tấc son còn nhớ chúa

Tóc hai phần bạc bởi thương dân


(Trần tình - bài 7)

Có thể thấy rằng, Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng thân dân vĩ đại suốt cuộc đời vẫn luôn giữ vững tín niệm của mình: sự hưng vong của một triều đại là dựa vào dân. Ông yêu nước nồng nàn, nhưng không chỉ là sông, núi, đất đai... những giá trị vật chất mà chủ yếu là nhân dân, tư tưởng thân dân có giá trị thực tiễn cao, là nét độc đáo trong tư tưởng của Nguyễn Trãi. Tấm lòng sắt son luôn hướng về đất nước, nơi bậc hiền nhân ấy đã đặt trọn cái tình, cái nghĩa để một lòng chiến đấu vì nước, chiến đấu vì dân, không ngừng trăn trở về sự nghiệp “chí nhân", “đại nghĩa" đã thực sự để lại cho hậu thế những di sản tư tưởng có giá trị to lớn, mang ý nghĩa quan trọng trong quá trình đấu tranh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân ta.


2. Con người với tình yêu thiên nhiên lớn lao

Khó mà nói hết những cái hay trong thơ văn Nguyễn Trãi. Trong bóng đêm của thời trung cổ phong kiến kéo dài luôn mấy trăm năm, cái đỉnh cao của Bình Ngô đại cáo cùng với những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi vẫn tỏa sáng không ngừng. Lê Thánh Tông đã từng nói: “Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê”. Tâm hồn Nguyễn Trãi hơn năm thế kỉ rồi quả vẫn rạng rỡ như sao. Đọc Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ta bắt gặp một cuộc đời khác hẳn, một cuộc đời thanh đạm, cảnh vật dàn trãi ra mênh mông, và trong cảnh đất trời phóng khoáng ấy, nổi bật lên hình ảnh tiên phong đạo cốt của nhà thơ quấn quýt với trăng, với gió. Đó là tinh thần thưởng thức say sưa của ông trước cảnh nước non kì diệu; đó là lòng tự hào trước giang sơn gấm vóc của đất nước ta; nó cũng là khía cạnh của lòng tự hào dân tộc. Trong Quốc âm thi tập, ta bắt gặp lại nguyên vẹn, đầy đủ con người Nguyễn Trãi, con người trong trắng, cao cả, con người có những tư tưởng cao lớn hùng vĩ, rộng lớn vô biên:


Lòng thơ muôn dặm, nguyệt ba canh !


(Bảo kính cảnh giới - bài 42)

Chính Nguyễn Trãi đã nói về mình như thế, và chúng ta cảm thấy ông khiêm tốn, chân thành! Đứng trước cảnh của thiên nhiên, một biểu hiện của tạo vật tồn tại Nguyễn Trãi có những năng lực rung cảm dào dạt lạ thường. Dù là một thoáng gió, một gợn mây, một tiế ng chim kêu, một nhánh cúc nở; đó là những cảnh tượng bao la...tâm hồn nhà thơ đều gắn bó với chúng trong một niềm thông cảm như giữa những tâm hồn bầu bạn: “Non nước cùng ta đã có duyên!”. Vì thế, trở về với mây ngàn hạc nội Nguyễn Trãi gởi gắm vào đó những nỗi niềm tâm sự, day dứt, băn khoăn. Đọc thơ về thiên nhiên của Nguyễn Trãi, ta đọc được những nỗi niềm tâm sự của ông. Thiên nhiên đối với Nguyễn Trãi là tài sản vật chất cung cấp cho đời sống tinh thần, làm thỏa mãn thế giới tâm hồn của con người. Trong những ngày về với Côn Sơn để tránh cái phức tạp của quan hệ xã hội, trở về là sự phản tỉnh sau mươi năm bị cái mũ nhà Nho đánh lừa, tránh cái lưỡi trần để bảo thân. Nguyễn Trãi đã bộc lộ sự thoải mái, cuồng phóng đến tột cùng. Thiên nhiên chẳng gợn chút bận bịu, nghĩ suy gì nữa. Thiên nhiên trở nên gắn bó, gần gũi, trân trọng:

Cùi hái mây dầu trúc bó.

Cầm đưa gió mặc thông đàn,

Ngày xem hoa rụng chăng cài cửa,

Tối rước chim về mưa lạc ngàn”


(Tự thán - bài 25)

Cũng núi non như trước kia Nguyễn trãi nhắc đến với một giọng buồn, đơn độc: “Còn một non xanh là cố nhân”, bây giờ ông như giàu lên, cảm xúc như mênh mang, quấn quýt với thiên nhiên:


Láng giềng một áng mây bạc,

Khách khứa hai ngàn núi xanh.

Có thuở viếng thăm bạn cũ,

Lòng thơ vạn dăm nguyệt ba canh.”


(Bảo kính cảnh giới – bài 19)

Nếu như sống giữa xã hội chằng chịt các mối quan hệ, day dứt, cô đơn thì tìm đến thiên nhiên ông tìm được bao nhiêu niềm vui: “Hái cúc hương lan bén áo, tìm mai đạp tuyết nguyệt xâm khăn”. Nguyễn Trãi tiếp nhận bắt nhịp với âm thanh của thiên nhiên với tinh thần đam mê, thông cảm:


Am rợp chim kêu hoa xảy động,

Song im hương vịn khói sơ tàn,

Mưa thu tưới ba đường cúc,

Gió xuân đưa một luống lan


(Ngôn chí - bài 16)

Thật vậy, vẻ đẹp tâm hồn sâu sắc ấy đã được thể hiện qua từng áng thơ Nguyễn Trãi. ông yêu thiên nhiên là ông đang hoà hợp, gắn bó, yêu quý và đặc biệt rung động trước vẻ đẹp của nó. Rồi ông cũng yêu đời, ông luôn vui vẻ, lạc quan, trân trọng chính cuộc sống của riêng ông tạo ra bỏi vậy mà ông lúc nào cũng sống thật thanh thản và thanh tịnh. Nếu như dưới thời Hồng Đức có hai câu thơ:

Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi

Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè


Hai câu thơ cũng viết về cảnh ngày hè mang dáng vẻ mộc mạc, thô ráp và dân dã qua từng ngôn từ và cách miêu tả nhưng những điều ấy đã thay đổi hoàn toàn trong thơ ca của Nguyễn Trãi, nó được thay thế bởi sự giao cảm mạnh mẽ mà rất đỗi tinh tế của một tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên và yêu đời hiếm thấy qua năm câu thơ trong “Bảo kính cảnh giới bài 43”:


Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.


Cảnh vật hiện lên trong bức tranh mang một sức sống mãnh liệt đến kì lạ, các nhà thơ xưa khi đến với thiên nhiên thường bằng bút pháp vịnh còn Nguyễn Trãi lại thiên về tả thực hết sức mới lạ. Bức tranh ấy hiện lên có đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị,... xen lẫn vào đó còn có cả cuộc sống của con người thật láo nhiệt, tràn đầy sức sống. Sự phối trộn màu sắc: hòe lục - lựu đỏ - liên (sen) hồng đã tạo thành một bức tranh đồng quê với đa nét vẽ. Một loạt các động từ xô đẩy nhau xuất hiện: đùn đùn - phun - tiễn (tỏa ngát) đã diễn tả thành công sức sống tuôn trào từ trong nội tại cảnh vật. Dầu đâu đây vẫn còn những hình ảnh ước lệ trong thơ ca cổ điển: thạch lựu, hồng liên; nhưng bằng sự kết hợp hài hòa với những từ thuần Việt: đùn đùn, phun..., nhà thơ Nguyễn Trãi đã dựng lên một bức tranh quê mang bản sắc và hồn cốt Việt Nam. Một cảnh sắc phun trào đầy sức sống: một không gian thẫm đẫm hương thơm thanh khiết của hoa sen giữa đầm lầy, ao chuôm, bờ bãi ... Đó quả thực là hồn quê, là tình yêu tha thiết của Ức Trai dành cho thiên nhiên xứ sở. Chính tình yêu thiên nhiên của nhà thơ đã làm sống dậy những cảnh sắc thôn quê bình dị và cũng chính tâm hồn trung trực, trong sáng tựa sao Khuê của Đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi đã làm cho

bức tranh quê ấy tỏa ngát hương thơm cả trong khoảnh khắc của một ngày tàn.


IV. KẾT LUẬN


Lấp lánh rọi sáng như một ngôi sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim “ưu thời ái quốc”, – thâm thuý, sắc bén, đầy biến hoá trong tài mưu lược chính trị – nhẹ nhàng mà thanh tao, thi vị trong những vần thơ về thiên nhiên, cây cỏ, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào vóc dáng dân tộc, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, trong lịch sử dân tộc. Suốt cuộc đời mình, bên cạnh tình yêu và nỗi trăn trở Nguyễn Trãi dành cho đất nước, cho nhân dân, ông còn để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ cho thi đàn và văn đàn Việt Nam, góp phần xây dựng một nền móng vững chãi cho nền văn học dân tộc. Như học giả Lê Trí Viễn từng bộc bạch: "Nguyễn Trãi là bông hoa đầu mùa tuyệt đẹp của thơ nôm Việt Nam”, tác phẩm văn chương mà Nguyễn Trãi để lại không chỉ là những dòng viết cất lên từ tiếng lòng của một bậc hiền nhân vĩ đại mà còn là tấm gương phản chiếu con người ông, một vị anh hùng dân tộc - danh nhân văn hoá thế giới tài đức vẹn toàn.

 
 
 

Bình luận


bottom of page