Tìm hiểu về Tế Hanh và thi phẩm "Quê Hương"
- KHOA NGOAI
- 10 thg 10
- 8 phút đọc

PHÂN TÍCH QUÊ HƯƠNG – TẾ HANH
Tác giả:
Tế Hanh (1921-2009), tên khai sinh là Trần Tế Hanh, sinh tại một ngôi làng ven biển ở Quảng Ngãi
Ông là một gương mặt có tiếng trong phòng trào Thơ mới với những bài thơ mang nặng nỗi buồn và tình yêu quê hương thắm thiết.
Sau năm 1945 thì ông còn sáng tác các bài thơ nhằm phục vụ cách mạng và kháng chiến.
Năm 1996 ông được tăng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật đợt
Các tác phẩm nổi bật:
+ Những ngày nghỉ học
+ Nhớ con sông quê hương
+ Đi suốt bài ca
Tác phẩm:
Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 khi ông đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương
Nguồn cảm hứng lớn để Tế Hanh sáng tác bài “Quê hương” chính là quê hương của ông
Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945)
Thể thơ: tự do, câu 8 chữ
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lười :
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.”
Ý nghĩa:
Cho biết nơi gia đình tác giả đang sống ở một làng quê cạnh biển, bốn bề sóng nước vây quanh.
Đây cũng là một điều kiện thuận lợi để người dân nơi đây mưu sống, kiếm sống bằng nghề chài lười.
Tác giả còn thể hiện sự tự hào khi nhắc được làng nghề truyền thống của quê hương mình; Một nghề mưu sinh tuy vất vả, nhọc nhằn mà thấm đượm hồn quê hương, đặc trưng của miền biển.
Nghệ thuật:
Phó từ “vốn” kết hợp với cụm danh từ “làm nghề chài lưới” đã cho thấy được nghề chài lưới trở thành một nghề truyền thống của nơi đây, được những người dân vùng chài giữ gìn và tiếp nối.
Kết luận:
Câu thơ đã giúp cho chúng ta biết khái quát về nghề mưu sinh, kiếm sống của gia đình ông; một nghề khó nhọc mà ông rất tự hào.
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mãPhăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.Cánh buồm trương, to như mảnh hồn làngRướn thân trắng bao la thâu góp gió…”
Đoạn thơ tái hiện lại cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi với hình ảnh người dân làng chài đầy khỏe khoắn, hăng say.
Ý nghĩa:
Cụm từ “sớm mai hồng” gợi cho ta vẻ đẹp của buổi sáng bình minh trên biển, là một bức tranh thơ mộng hiện ra trước mắt với bầu trời trong, cơn gió nhẹ => bắt đầu ngày mới với nhiều niềm tin, hy vọng, hứa hẹn một chuyến ra khơi đánh bắt thật bình an, thuận lợi.
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá” : hình ảnh người dân chài lưới hiện lên với vóc dáng khỏe khoắn, rắn rỏi, tư thế tráng sĩ, tinh thần hồ hởi thực hiện công việc của mình.
Tế Hanh đã cho chúng ta thấy được một tinh thân dứt khoát của những người con đất biến, thấy được sức mạnh dũng mạnh của con thuyền băng băng băng như muốn vượt lên sóng vỗ, vượt lên gió to giữa không gian biển cả để vươn mình ra khơi.
Từ một vật vô tri vô giác, cánh buồm đã được ví như như một linh hồn rất đỗi linh thiêng của quê hương. Chỉ có những người gắn bó rất gần gũi, có tình cảm yêu thương sâu nặng với quê hương, với làng chài ven biển và với con người nơi đây như Tế Hanh thì mới có thể cảm nhận được một cách tinh tế đến vậy.
Nghệ thuật:
“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã”, những chiếc thuyền chở đầy cá đã đồng hành qua bao năm tháng với những người con của miền biển, tác giá đã khéo léo sử dụng phép so sánh để nhấn mạnh và làm rõ sự hùng dũng, khí thế của con thuyền trên cuộc hành trình vượt biển ra khơi đánh cá.
Cánh buồm ở mảnh đất Quảng Ngãi được ông ẩn dụ như linh hồn của làng chài, thấm đẫm tình yêu quê hương và sự gắn bó sâu đậm qua góc nhìn của Tế Hanh – một người con của miền biển.
Bằng cách sử dụng phép nhân hóa “rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh, qua hồn thơ của Tế Hanh, dường như cánh buồm cũng trở thành một “người bạn” của con người, cùng vượt qua mọi khó khăn, đồng hành cùng người ngư dân qua những lần lam lũ trên biển.
Tổng kết:
Sáu câu thơ trên đã thay lời tác giả nói lên cảnh tượng lao động hăng say, hứng khởi tràn đầy sức sống của làng chài lưới qua từng áng thơ và các biện pháp tu từ được sử dụng khéo léo của ông.
Cảnh đón thuyền cá về bến:
“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”
Nội dung:
Những tính từ “ồn ào”, “tấp nập” như tô điểm thêm những nét huyên náo,nhộn nhịp – niềm vui của những điều thật giản dị, thật “đời thường” như thế!
“Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe” – một lời cảm tạ của tác giả, cảm tạ trời đất, biển khơi vì một chuyến đi bình an, vì những mẻ đầy ắp cá “tươi ngon thân bạc trắng”. Lời tạ ơn chân thành ấy của Tế Hanh mới cho ta thấy tình yêu da diết của ông với làng chài đầy gió sương ấy, quả thực, ông đã thấu tình quê hương khi dùng vầng thơ mình mà nói lên những nỗi niềm, nỗi hân hoan của người dân làng chài - những con người gắn bó với biển, vui sướng cùng biển, hoạn nạn cùng biển.
Nghệ thuật:
Lối văn miêu tả tinh tế dưới ngòi bút của Tế Hanh như khiến ta cũng hòa vào cái khung cảnh náo nhiệt và tấp nập ấy bằng việc sử dụng những tính từ có sức miêu tả cao như “ồn ào”, “tấp nập”, “bạc trắng”. Ta như đắm mình trong hơi thở của biển, của những tiếng sóng rì rào và những niềm hân hoan giản dị của miền quê mộc mạc ấy.
Tổng kết:
Bốn câu thơ miêu tả một bức tranh sinh động và náo nhiệt về khung cảnh dân làng chài đón thuyền cá trở về.
“Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm ;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”
Nội dung:
Lối tả thực được sử dụng ở câu thơ đầu tiên: “Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng”, tuy nhiên, ở câu thơ thứ 2, tác giả lại có những cảm nhận rất đỗi lãng mạn và sâu sắc về những “đứa con của biển”: “Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”. Cả hai câu thơ gột tả hình ảnh một người dân chài lưới với làn da ngăm rám nắng rắn rỏi và khỏe khoắn; thấm đẫm của “vị xa xăm” nhưng lại vốn rất quen thuộc của biển cả, của đại dương bao la.
Câu thơ thứ 3 là hình ảnh của chiếc thuyền đậu trên bến, thấp thoáng đâu đó, ta thấy được sự yên bình mộc mạc nơi làng quê của ông; như nghe được “chất muối thấm dần trong thớ vỏ” ấy.
Những chiếc thuyền ấy cũng như những người dân chài, cũng thấm đẫm cái mặn mòi của biển, thấm đẫm hơi thở và cái “vị xa xăm” của biển trong từng thớ vỏ, từng cột buồm, từng mái chèo.
Nghệ thuật:
Bằng bút pháp miêu tả tài tình của mình, Tế Hanh đã gợi nên hình ảnh của những người dân làng chài với những cảm nhận sâu sắc và tình yêu quê hương lớn lao của mình.
Bằng cách sử dụng phép phân hóa với từ “mỏi” ,“nằm” và từ “nghe”; nhà thơ đã thổi hồn vào những vật vô tri ấy, khiến những sự vật như mang trong mình những nét thật riêng, thật đặc biệt. Phải chăng cũng chính cái hơi thở mặn mòi của biển, của làng quê ấy cũng đã thấm vào tâm hồn, vào từng thớ thịt của Tế Hanh để rồi viết nên những vần thơ thật đẹp đẽ và sâu sắc đến thế!
Tổng kết:
Khác với câu thơ trước, ở bốn câu thơ này, Tế Hanh đã vẽ nên những màu sắc yên bình và thật bình dị cho làng quê của ông bằng những vần thơ và những phép nhân hóa được sử dụng một cách tài tình.
“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ thương quê hương da diết của tác giả.
Ý nghĩa:
Tác giả là một người con xa xứ, từng dòng thơ ông viết như những lời giãi bày để bộc bạch hết tâm tư, tình cảm gắn liền với nỗi nhớ khôn nguôi dành cho quê hương của mình.
“Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi” : từng hình ảnh tưởng chừng rất thân thuộc, bình dị nhưng chúng lại vô tình khiến tác giả thêm mong mỏi, đợi chờ ngày được trở về thăm quê, trở về với nơi được gọi là nhà.
Màu sắc đặc trưng của làng chài, là màu sắc của vùng biển, của từng chài cá, và cả chiếc buồm vôi bạc phếch đã gắn liền cùng nhà thi sĩ qua bao năm tháng của cuộc đời. Tác giả còn cảm nhận được mùi hương nồng mặn xa xăm của quê biển.
Đây là một khổ thơ vô cùng sâu sắc và thấm thía bởi nó được viết nên từ những cảm xúc chân thành nhất của tác giả dành cho nơi đã sinh ra mình.
Nghệ thuật:
“Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!” : một câu nói, một câu cảm thán đã trực tiếp bày tỏ được hết cảm xúc của Tế Hanh với những hình ảnh, những nét đẹp và cả tâm tư của ông với quê hương.
Tổng kết:
Bốn câu thơ cuối cho ta thấy được nỗi nhớ thương da diết của những người con xa xứ nói chung và tác giả nói riêng. Qua đó, ta có thể cảm nhận được sự tinh tế, lãng mạng và gắn bó sâu nặng với con người và cuộc sống miền biển qua hồn thơ Tế Hanh.
Tổng kết nội dung:
Bài thơ là một bức tranh về quê hương, cảnh người dân chài lưới đóng thuyền về được vẽ nên bằng những nét náo nhiệt và yên bình dưới ngòi bút tài tình của Tế Hanh.
Thấp thoáng trong đó, ta thấy được nỗi nhớ và tình yêu quê hương của ông qua những sự vật rất đỗi bình dị - nhớ màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi ; nhớ hình ảnh đoàn thuyền ra khơi; nhớ cái mùi mặn nồng của biển.
Tổng kết nghệ thuật:
Tác giả đã khéo léo sử dụng ngôn từ bình dị mà gợi cảm, kết hợp cùng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa góp phần tạo nên những vần thơ trữ tình chứa chan thi vị.
Với nghệ thuật đặc sắc ở cách cảm nhận tinh tế, hình ảnh đặc trưng và chắt lọc, tác giả làm sống mãi một làng chài thân thương trìu mến. Thủy chung với một miền quê – một miền thơ như thế nên vần thơ quê hương của Tế Hanh vẫn giữ mãi một vẻ riêng độc đáo, hấp dẫn bao thế hệ yêu thơ.






Bình luận