top of page
Tìm kiếm

"Có tình, thường chưa đủ để thành thơ… Nhưng, muốn thành thơ, trước hết phải có tình". (Hoài Thanh)

  • Ảnh của tác giả: KHOA NGOAI
    KHOA NGOAI
  • 9 thg 9
  • 14 phút đọc

Đã cập nhật: 22 thg 9

ree

Bàn về thơ, nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng: 

"Có tình, thường chưa đủ để thành thơ… Nhưng, muốn thành thơ, trước hết phải có tình". 

(Hoài Thanh)



Trong cái mênh mông của vụ trụ nhân sinh, trong cái bất tận của thời thế, con người dường như chẳng còn phải bám víu lấy các lớp bồi của lập trường tư tưởng mà tồn tại. Con người ta sống và đối diện trước cái hữu hạn của đời sống như một lẽ vô thường để rồi thả những trăn trở, ưu tư, tình cảm nhờ văn chương giữ lấy. Văn chương tự bao đời nay vẫn luôn là người bạn tri âm của tâm hồn, là tiếng chuông gió được vang lên từ những thanh âm của trái tim, của những rung cảm mãnh liệt, vang động trong tiếng lòng mà con người góp nhặt từ cuộc đời. Thơ ca vì thế cũng không nằm ngoài những ý niệm về văn chương, như nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận định: "Có tình, thường chưa đủ để thành thơ… Nhưng, muốn thành thơ, trước hết phải có tình". Tình cảm là hồn cốt của thơ ca, nhưng sinh mệnh của thơ còn nằm ngoài phần thi vị của nội tâm con người, bởi nếu chỉ là tình thì dù có là “tình tột bậc", thơ chẳng còn là áng thơ trọn vẹn.


"Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương" (Bạch Cư Dị). Thật vậy, tình cảm quyết định nên sự sinh thành của thơ ca, tình cảm là nguồn cội của văn chương, thiếu đi ý tình, văn chương không còn là nghệ thuật mà chỉ còn là triết lý, là bản chất khô khăn, thậm khí văn chương khi đó không còn là văn chương nữa. Đến với Hoài Thanh - một trái tim dành trọn cho văn chương, “tình" ở đây trước hết là tình cảm của người cầm bút với cuộc đời đa sắc, con người đa đoan, là nỗi đau âm ỉ hay niềm vui rạo rực, thanh tân trước con người, thảo hoa, rộng hơn là cuộc sống. Tình còn là những rung cảm, những nốt nhạc lòng ngân lên từ trong trái tim người thi sĩ trước những hỉ nộ ái ố của cuộc đời, để từ những tiếng lòng ấy, cái tình khởi phát thành ý niệm ngót nghét trong trái tim, trong tâm thức của mỗi người nghệ sĩ hoá nên thơ. Dù ở thời đại nào, ở xã hội nào, thơ ca nói riêng và văn chương nghệ thuật nói chung không chấp nhận dung nạp tiếng “tình" hời hợt hay có chừng mực, tiếng thơ muốn cất lên có giá trị, người viết phải “thương xưa, xót nay" với người, với vật, với cảnh thế để những tiếng lòng cất lên phải là những tình cảm sâu nặng nhất, chân thành nhất, gói ghém mãnh liệt nhất. Nhưng, thật chất, có “tình” vẫn chưa đủ để thành thơ. Lao động nghệ thuật vốn không phải là hoạt động sản xuất hàng loạt nhưng trang thơ không có sự chọn lọc, càng không phải chỉ cần bộc bạch được tình cảm, được lương tri là sẽ đạt tới đỉnh cao của nghề cầm bút. Văn chương, thơ ca đòi hỏi cao nhất ở trí tuệ, trái tim và cả bản lĩnh con người. Một tiếng lòng sâu nặng hay nhưng rung động khẽ lướt nhanh như cơn gió cuối hạ là chưa đủ để một áng thơ được cất lên. Bởi lẽ, sáng tác là cả một quá trình thai nghén, ấp ủ, mang trong mình những nỗi canh cánh, những ưu tư, ảm đạm để rồi hoà cùng với sợi chỉ đỏ lý tưởng, quan niệm nhân sinh, góc nhìn riêng biệt, người nghệ sĩ mới có thể sinh thành nên trang thơ của chính mình. “Nhưng, muốn thành thơ, trước hết phải có tình”, tình cảm vẫn luôn là yếu tố tiên quyết, không thể thiếu, không thể yếu ớt, không thể nhạt nhoà trong quá trình viết nên thơ. “Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ của người cầm bút", từ thời cổ chí kim, bằng dòng máu đỏ, bằng nước mắt trước những nỗi đau của thời cuộc, bằng ngọn lựa trực trào của tình thương và hy vọng dành cho đời, cho người, người nghệ sĩ mới viết nên thơ, bởi cốt yếu cần có của thơ là cái tình cái nghĩa trọn vẹn, là sự say mê người nghệ sĩ nung nấu cho những nét đẹp trong cuộc đời. Câu nói của Hoài Thanh không phủ nhận tầm quan trọng của ý tình trong thơ ca, nhưng cơn gió nâng cánh cho áng thơ bay xa trên thi đàn còn là những yếu tố khác, là ý tứ, là tài năng và sự trau đồi của người cầm bút, chỉ có sự biện chứng hài hoà, thơ mới có thể vượt qua sự sàng lọc khắt nghiệt của thời gian, thời thế mà hiên ngang đứng vững trên thi đàn và tiếp tục sống đời sống mà người cầm bút đã ban tặng cho “đứa con tinh thần" của chính mình. 


“Có những đêm không ngủ, mắt rực sáng và thổn thức, lòng ngập tràn nhớ nhung... khi đó tôi viết” (Lermontov). Ngay từ mục đích sáng tác đã mang dấu ấn của cái tình của người thi sĩ, đã đề cao những tiếng trăn trở của nỗi lòng, thì có lý gì mà thơ không chứa chan ý tình của người cầm bút trong từng con chữ? Cái tâm không nguôi những đau đáu, những sầu thương, bi cảm mà con người anh dành cho cuộc đời là chất xúc tác mạnh mẽ để lòng anh cuộn trào như những đợt sóng ngầm, mà nếu như anh không đủ can đảm để bộc bạch, để thổ lộ, ngọn sóng tinh thần ấy sẽ chiếm trọn lấy hồn anh. Hồn thơ là tấm gương phản ánh bức tranh hiện thực được đúc kết, lượm nhặt và lấy thi liệu từ cánh đồng hiện thực màu mỡ, nhưng hồn thơ anh còn là liều thuốc chữa lành, chữa lành anh khỏi những xúc động nội tâm không thể giãi bày, cứu rỗi anh trước những chông chênh mà cuộc đời đẩy đưa đến cho anh và anh không thể kháng cự lại chính trái tim mình. Tình cảm ấy thấm đẫm quan niệm nhân văn, những tâm tư, những xốn xang trước dao động cuộc đời; đó chắc hẳn phải là thứ tình cảm, tình yêu được nuôi dưỡng, được ấp ủ thiêng liêng, vượt qua những trạng thái tầm thường của thế nhân sinh để cất lên những dòng cảm xúc mãnh liệt nhất, cao thượng và hân hoan nhất bởi đó chính xác là những trải lòng mà người nghệ sĩ không thể cất thành lời nhưng nhờ trang thơ giữ lấy để không vuột mất đi trước bao nhiêu suy nghĩ cứ vây kín lấy hồn người. Từ đó, cái “tình" trong sáng tác văn thơ không chỉ là cái tình riêng, mà còn là tình cảm chung, là ý niệm chung của cả thời đại, là một sự “cứu rỗi” linh thiêng đối với những kiếp người đau thương bất hạnh. Nỗi đau trong văn chương chưa bao giờ là chuyện cũ, bởi cuộc đời còn lấp lánh những mất mát, sầu buồn, đòi hỏi người cầm bút phải tinh tế nhận ra và lấy chính những cảm xúc, niềm thương nức nở mà hoá nên thơ, như Chế Lan Viên từng khẳng định:

“Tôi trong đau vẫn làm viên muối bể

Để mặn cho lòng kẻ muốn vô tư.”

Dù xót xa, đau đớn, người nghệ sĩ không vì thế mà lặng nhìn thời cuộc, những trang thơ, trang văn sẽ là những tiếng lòng ẩn sâu được cất lên thành các cung bậc tình cảm ý nghĩa nhất, lan toả và chạm đến trái tim độc giả. Cái tình sâu nặng ấy được Xuân Diệu gói ghém gửi trọn vào từng tiếng thơ trong “Nguyệt Cầm":

“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.”

Tiếng đàn và ánh trăng đã nói hộ tiếng lòng của người thi sĩ, tiếng lòng ấy nao nao, xao xuyên chực trào nơi khoé mắt. Trên là trắng, dưới là đàn, âm sắc rung lên trong từng bậc thơ có lẽ cũng là những “dây đàn" cảm xúc đang chi phối tâm hồn người thi sĩ. Những tiếng buồn, tiếng sầu giữa cảnh sắc vắng vẻ càng làm cho ý thơ thêm nặng trĩu, đau đáu và da diết biết bao. Đàn hoà cùng trăng, tiếng đàn quyện vào ánh nguyệt sáng để rồi tiếng đàn như đồng vọng tâm hồn người thi sĩ, người nghệ sĩ với trăng, ánh trăng vĩnh hằng, ánh trăng soi sáng và cứu rỗi cả tâm hồn hoang vu của người thi sĩ giữa đêm cô hiu quạnh. “Giọt rơi" là giọt đàn hay là giọt trăng mà lại “tàn", lại đau thương, lại xót xa đến thế. Xuân Diệu lấy cái hữu hình hoá cái vô hình để khéo léo gợi ra những cảm xúc mênh mang, xuyến xao khó tả trong cơn bão lòng, để ý thơ thêm lung linh, sâu sắc, để lại dư âm ngân vang như “giọt sầu" của người thi sĩ. Tiếng đàn của Xuân Diệu đã khắc hoạ một thứ tình rất khó tả, nhưng là thứ tình sâu nặng, chơi vơi, và vô cùng tinh tế. Tình cảm của bản ngã cá nhân, giờ đây đã hoà vào cái đại ngã để thay cho lòng biết bao người cất lên những dòng cảm xúc cô liêu nhất mà con người phải gánh vác. Xuân Diệu từng nhận xét về thơ Huy Cận" Cái buồn của Huy Cận là cái thương vô hạn hoá thành cái tủi vô cùng: ấy là thứ “hận sầu dài dặc lâu bền, nó gieo hoạ trong lòng bọn thi sĩ”. Nỗi buồn đó vốn là nỗi buồn chung của con người, bọn thi sĩ chúng tôi nhẹ lòng nhẹ dạ nên lĩnh mang giúp tất cả cho nhân gian". Cái tình của thi sĩ được in sâu không chỉ vì họ có thể gửi gắm những rung động cá nhân vào trang thơ và sinh thành nên đứa con tinh thần, mà còn nằm ở việc cảm thụ và “nói nên lời bằng các ngôn ngữ nghệ thuật khác nhau những điều vốn ấp ủ hay mường tượng trong lòng nhiều người". Sinh ra với sự tinh tế, nhạy cảm vốn có, người nghệ sĩ đứng trước một cuộc đời đầy biến động với những tan hoàng tiềm tàng để rồi họ giữ lấy, và che chở những niềm đau, những mảnh vỡ mà tâm hồn con người phải cưu mang. Cái tình ấy thể hiện rõ nét qua “Tràng giang":

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.” 

Không chỉ là xót xa cho cái “rời rạc trong hồn" của tiếng lòng mình, Huy Cận còn gửi gắm tất thảy lòng mình vào dòng sông quê hương, nơi những cơn sóng xô hiu quạnh, cô đơn, vô định cuốn lấy tâm hồn thi sĩ, một niềm đau của thời đại, của những hồ mơ, ngập ngừng và miên man khó tả. Tận sâu trong trái tim ông, còn là cái niềm đau trăm sầu trăm ngả, văn nhân luôn “tự mang lấy một chữ tình" để dìu dắt con người qua những cuộc bể dâu, dù rằng lòng anh còn biết bao nhiêu là đơn côi thoáng chốc như giấc mộng vô thường mà không còn cách giãi bày ngoài nhờ văn thơ giữ lấy chút hoài niệm: 

“Thâu trong một cái ngáp dài vô tận

Hình ảnh lung lay vũ trụ tàn"

(Giấc ngủ chiều - Huy Cận)

Những khối tình của người thi sĩ được gửi gắm qua những nỗi buồn chung, khi người nghệ sĩ sống hết lòng, dốc hết tâm can với cuộc đời để gom góp những nỗi buồn chung của thời đại để bộc bạch qua thơ văn:

“Một khối tình nức nở giữa âm u,

Một hồn đau rã lần theo hương khói,

Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi

Một lời run hoi hóp giữa không trung,

Cả niềm yêu, ý nhớ, cả một vùng

Hoá thành vùng máu đào trong ác lặn"

Thơ ca là thế, là sự tỏ lòng qua những tiếng “nức nở", qua những “hồn đau", qua những “lời run" mà người cầm bút đã dành trọn lòng mình để chấp nhận những vướng vấn khôn nguôi mà cất lên thành áng thơ, để lại cho độc giả những chiêm nghiệm, những tình cảm đẹp, những ý thiện giữa cuộc sống vẫn luôn man mác nỗi sầu buồn. 


Mang trong mình những khối tình khổng lồ và những nỗi sầu về sự chia xa, về nỗi đau thời thế, nhà thơ vẫn không ngừng viết về sự sống, sự ươm mầm bởi thơ ca không chỉ gánh mang cho những nỗi đau âm ỉ mà còn là tiếng hát xoa dịu, chở chê, tưới mát, nuôi lớn tâm hồn con người bằng cách “kích hoạt những dây đàn cảm xúc". Trong ngày được trở về nhân dân sau một hành trình xây dựng nhận thức, từ cái tôi chật hẹp của chính mình, người nghệ sĩ đã hoà và sống trong vòng tay của nhân dân. Tình cảm từ đó cũng dâng trào mà cất nên thơ:

“Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi

Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu

Tôi sống cùng với cuộc đời chiến đấu

Của triệu người yêu dấu gian lao"

(Những đêm hành quân - Xuân Diệu)

Có thể thấy rằng, trong cái niềm xúc động chân thành ấy, nhà thơ đã khắc hoạ lên được bức tranh cảm xúc trong cuộc trở về với vòng tay nhân dân - những người cùng máu thịt, cùng nguồn cội, những kẻ bình thường gần gũi giúp thi nhân viết và nuôi dưỡng cuộc đời cho những “đứa con tinh thần" của ông. Không có tình yêu với cuộc đời, với nhân dân, Xuân Diệu sẽ chẳng thể cất lên và thoát khỏi những hình ảnh siêu hình của quá khứ, của các trạng thái có phần nổi loạn, vô hồn của một thời. Văn chương như “một cái cây mà tình là gốc" (Bạch Cư Dị). Cây không có gốc sẽ không thể tồn tạ, cũng như viết văn, viết thơ mà không động lòng, tình không tràn đầy, thấy đẹp mà không yêu, thấy xấu mà không phẫn, không hận thì những câu văn dù chứa chan đau khổ, hay phấn khởi hân hoan như khúc ca, dù có viết biết bao từ nhớ, từ thương thì tác phẩm sẽ không thể sống sau dấu chấm cuối cùng, mà chết yểu chết tàn trước khi nó kịp hình thành sự sống bền vững trong lòng người đọc. Một tác phẩm mà không chứa chan cái ý tình thì suy cho cùng cũng chỉ là những trang thơ, trang văn mờ mịt và đáng lãng quên trước bước đi của thời gian và sự chuyển mình của thời thế. Nhưng tình cảm trong thơ, dù có là tình sầu trăm ngả hay là tình cảm thiêng liêng, hạnh phúc cũng phải là thứ tình cảm đẹp, cao cả, hướng đến cái thiện, cái mỹ. Dẫu là rung động cá nhân, dẫu là tình cảm sâu nặng đến biết bao cũng cần anh, người nghệ sĩ phải lắng nghe tiếng nói thời đại, phải là những mỹ cảm dồi dào, phù hợp, phải hướng người đọc đến sự thanh cao, “giúp con người sống tốt hơn, ra người hơn" (Thanh Thảo). Những khát khao, những câu chuyện của đời anh gửi vào trang thơ cần thắp lên những tia sáng cho tấm hồn khô cằn, cần thắp lên những yêu thương, những đồng cảm cho những người xa lạ, để lại bao thổn thức sưởi ấm trái tim con người:

“Anh qua trái đất để lại chừng thơ ấy

Hãy thương anh, anh nào có chi nhiều

Một chút nắng tàn, một dòng nước chảy

Trái tim nghèo nhưng cũng đã tin yêu"

(Gởi - Chế Lan Viên)

Những áng thơ dù đã ố vàng dấu chân của thời gian, dù ở thời đại nào, người của thời đại ấy ra sao vẫn luôn thấm đẫm tình người, tình đời. Cái tình trong văn chương dù xuất phát từ “trái tim nghèo" vẫn luôn chất chứa những rung cảm, vươn mình cùng thời đại, để tiếp tục chạm đến và xoa dịu trái tim của biết bao nỗi niềm cần văn chương lĩnh mang. 

"Thơ là tiếng nói đầu tiên, là tiếng nói thứ nhất của tâm hồn con người khi đụng chạm với cuộc sống" (Nguyễn Đình Thi). Nhưng thơ cũng chỉ là tiếng nói đầu tiên, bởi lẽ để nên thơ, người thi sĩ còn phải “đi ra ngoài mới đạt cao siêu". Người nghệ sĩ đi vào bên trong để lắng nghe những tiếng lòng của “đứa trẻ" bên trong mình và lấy cảm hứng để biến tấu nên thành áng thơ mang đậm cái tôi cá nhân, cái tôi độc đáo và sự tài ba của người cầm bút. Sự thăng hoa nghệ thuật đương nhiên chẳng thể chỉ được đúc kết từ những tâm tình hay rung động, mà bản thân người nghệ sĩ cũng cần kết hợp khéo léo các thủ pháp nghệ thuật, tính nhạc, tính hoạ, cách gieo vần, ý thơ để tạo nên một áng thơ tuyệt bút. Những chức năng của thơ, đặc trưng về hình thức, nội dung, ngôn ngữ thơ cũng cần người thi sĩ xử lý ở mức độ tinh xảo nhất, khi đó thơ mới là thơ toàn diện. Sự kết hợp và cân bằng giữa lý trí và cảm xúc, giữa ý niệm và ý tình sẽ khiến thơ không chỉ tự mình đạt được chỗ đứng trên thi đàn, mà còn góp phần định hình phong cách cho thi sĩ và mang lại những tiếng nói mới cho văn học. Phong cách ấy cũng cần phải có những phẩm chất thẩm mĩ, nghĩa là nó phải mang lại cho người đọc sự hưởng thụ mĩ cảm dồi dào, điều này lại trở về với bản chất cốt lõi của văn chương, đó là tình cảm, là nhịp đập của trái tim trong từng hơi thở của thời đại. 


Để những tình cảm trong thơ toả sáng và đạt được những sứ mệnh cốt lõi mà văn chương chân chính mưu cầu, người nghệ sĩ phải sống trọn vẹn, sống sâu, sống hết mình và không thể nhìn đời bằng con mắt lãnh đạm, xuôi chiều, không be nguyên xi hiện thực vào trong tác phẩm mà phải để trái tim mình hưởng thụ trọn vẹn bầu khí quyển của thời đại và rung động trước những nét đẹp yêu kiều. Người nghệ sĩ cần dốc hết tâm can để nói lên những tiếng nói tận sâu trong lòng mình để trở thành người “kĩ sư tâm hồn đi cứu rỗi thế giới", biết hiểu đời, hiểu người thì khi đó tác phẩm anh gửi gắm cho thi đàn mới thấm đẫm hồn anh, tình anh. Bản thân nghệ thuật là hoạt động của sự sáng tạo mang tính cá thể, không lặp lại người khác và chính mình, mỗi người nghệ sĩ nói chung cần không ngừng trau dồi để đạt được thứ “vân tay nghệ thuật riêng", thể hiện và khẳng định được tài năng, phong cách và điểm sáng của anh. Song, người nghệ sĩ vần cần hoà vào tác phẩm anh cái hồn của thi nhân, văn nhân, một tâm hồn sống sao cho nên thơ nên hoa, nhưng vẫn thực tế và chuẩn mực. Văn chương đã hết lòng mang lại cho cuộc đời những gấm hoa, bạn đọc vì thế cũng cần có ý thức tự trao dồi khả năng cảm thụ, mở lòng đó nhận cuộc đời, biết thương và trân trọng nghệ thuật chân chính bởi để có những vần thơ như thế, người nghệ sĩ đã phải gồng gánh và khước từ biết bao mê hoặc, tự đối diện với sự cô đơn, cô độc trong lòng mình và thả trôi mình vào chữ nghĩa để xác lập chỗ đứng cho từng “khúc ca” nghệ thuật của chính mình. Dù ở phạm trù nào, ở dạng thức hay khía cạnh nào, thơ ca muôn đời vẫn luôn là những con chữ được chắt lọc tinh tuý từ giọt cảm xúc sâu lắng, thuần khiết, và độc đáo nhất mà văn nhân, thi nhân nuôi dưỡng được từ cảm thức của chính mình với cuộc đời. 


Giữa những mông lung, mơ hồ của thời cuộc, mọi điều như tan biến theo quy luật băng hoại của thời giai tự bao giờ thì văn chương nói chung và thơ ca nói riêng vẫn luôn tồn tại và mang đến cho đời, cho người những khối tình sâu đậm, trọn vẹn nhất. Ẩn sâu trong quá trình đó còn là sự hoà quyện, sự kết hợp tinh khôi, khéo léo giữa chữ tài và chữ tâm của người nghệ sĩ, là thời gian vun mình giữa bể dâu cuộc đời để góp nhặt những “giọt vàng" lung linh nhất mà đan kết vào trang thơ. Thơ ca muôn đời xuất hiện ở vũ trụ nhân sinh là thế, để đón nhận những rung động cuộc đời gửi gắm, để nâng đỡ, cứu rỗi và tìm về với trái tim đầy thổn thức của độc giả như một cách viết tiếp câu chuyện cuộc đời mình bằng một thế giới hình tượng diệu kì trên thi đàn. 


 
 
 

Bình luận


bottom of page