top of page
Tìm kiếm

Hiện tượng diễn hoá motif trong truyện cổ tích Việt Nam

  • Ảnh của tác giả: KHOA NGOAI
    KHOA NGOAI
  • 22 thg 9
  • 20 phút đọc
ree

1. Đặt vấn đề

- Motif là một trong những thuật ngữ văn học dân gian được sử dụng nhiều nhất hiện nay trong các công trình nghiên cứu về thể loại tự sự dân gian. Những năm gần đây, nhu cầu nghiên cứu truyện kể dân gian theo hướng phân tích kết cấu và nội dung của motif cũng như mối quan hệ giữa motif và cốt truyện ngày càng gia tăng mạnh mẽ.

- Trong truyện cổ tích, motif là đơn vị cơ bản cấu tạo nên cốt truyện. Đây là một yếu tố không thể thiếu trong truyện cổ tích, ẩn chứa nhiều tầng văn hoá và quan niệm nhân sinh của người Việt.

- Hiện tượng diễn hoá motif tác động đáng kể đến phần đông cốt truyện và kết truyện cổ tích trong kho tàng văn học Việt Nam.

2. Truyện cổ tích Việt Nam

2.1. Khái niệm truyện cổ tích Việt Nam

Theo Hoàng Tiến Tựu trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam: “Truyện cổ tích là một loại truyện kể dân gian ra đời từ thời cổ đại, gắn liền với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, hình thành của giai cấp phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội; nó hướng vào những vấn đề cơ bản, những hiện tượng có tính chất phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là những xung đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi gia đình và xã hội. Nó dùng một thứ tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là “Tưởng tượng và hư cấu cổ tích”), kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù khác để phản ánh đời sống và ước mơ của nhân dân đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục và giải trí của nhân dân trong những thời kỳ, những hoàn cảnh lịch sử khác nhau của xã hội có giai cấp (ở

Việt Nam chủ yếu là xã hội phong kiến)”. Các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học cũng đưa ra định nghĩa về truyện cổ tích như sau: “Truyện cổ tích - Một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thuỷ nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lý giải những vấn đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng (chủ yếu là gia đình phụ quyền) có mâu thuẫn đấu tranh giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt”.


Như vậy, có thể hiểu truyện cổ tích là những truyện đời xưa được nhân dân lưu giữ lại. Nó mang tính chất hư cấu, kì ảo. Truyện có nội dung phong phú nhằm phản ánh và lý giải hiện thực xã hội những số phận khác nhau của con người khi có chế độ tư hữu tư sản, dần thoát khỏi chế độ xã hội nguyên thuỷ; đồng thời truyện phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên nhằm phản ánh những ước mơ khát vọng của nhân dân lao động về một xã hội công bằng dân chủ.


2.2. Phân loại truyện cổ tích Việt Nam

Vấn đề phân loại truyện cổ tích cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Theo cách phân chia của Giáo sư Hoàng Tiến Tựu trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam (NXB Giáo dục, năm 2001), truyện cổ tích gồm 3 bộ phận chính: truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích thế sự và truyện cổ tích loài vật. Truyện cổ tích thần kì: là loại truyện chứa đựng hai thế giới: một thế giới tương ứng với hiện thực và một thế giới không mang tính hiện thực. Yếu tố thần kì trong truyện này đóng một vai trò rất quan trọng. Nó là yếu tố có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của cốt truyện. Mọi xung đột và mâu thuẫn được giải quyết trong địa hạt thần kỳ. Không một truyện cổ tích thần kì nào không có bóng dáng yếu tố thần kì, yếu tố có liên quan trực tiếp đến nhiều phương diện về nội dung và thi pháp của loại truyện này. Truyện cổ tích thế sự: là loại truyện phát triển khi xã hội có giai cấp bộc lộ nhiều mặt tiêu cực của nó và xung đột giai cấp, xung đột giàu – nghèo phát triển cao... Truyện mang nội dung của những chuyện gần gũi với đời sống hàng ngày, có việc hay, việc dở, kẻ tốt, người xấu... Trong nhiều truyện hầu như không có yếu tố thần kì (ví dụ: truyện người chị dâu tốt bụng; Thằng khờ đi mua vịt; Làm theo lời vợ dặn...). Một số truyện có yếu tố thần kì , song yếu tố này không có vai trò quan trọng như trong loại cổ tích thần kỳ. Truyện cổ tích loài vật: là những truyện hướng về sinh hoạt của xã hội loài vật và lấy loài vật làm nhân vật chính, nhất là những con vật gần gũi và có nhiều ảnh hưởng, tác dụng đối với đời sống con người (con trâu, con bồ câu, con sáo, con thỏ, con cáo, con cọp, con khỉ...). Ở đây, sự nhân cách hóa con vật vừa bắt nguồn từ quan niệm cổ xưa trong thần thoại vừa là một biện pháp nghệ thuật để phản ánh, nhận thức đối tượng. Vì thế ở đây vừa có nội dung sinh vật học, vừa có nội dung mang ý nghĩa xã hội với những mức độ khác nhau và hai mặt nội dung đó hòa quyện với nhau rất chặt, nhiều khi rất khó tách bạch.


2.3. Đặc điểm truyện cổ tích Việt Nam

Thuộc loại hình tự sự dân gian, truyện cổ tích có những đặc điểm riêng so với các thể loại tự sự khác. Xét trên đại thể, có ba đặc điểm nổi bật cần chú trọng khi bàn về truyện cổ tích nói chung và truyện cổ tích Việt Nam nói riêng: đề tài, không gian, thời gian và nhân vật cổ tích.

2.3.1. Đề tài truyện cổ tích Việt Nam

Phần lớn truyện cổ tích ra đời khi xã hội đã phân chia giai cấp. Điều đó quyết định lớn tới vấn đề người kể chuyện quan tâm. Nếu thần thoại chủ yếu phản ánh mối quan hệ con người – thiên nhiên, truyền thuyết phản ánh mối quan hệ con người và cộng đồng, dân tộc, quốc gia thì cổ tích hướng tới mối quan hệ giữa con người và con người trong xã hội. Sáng tạo cổ tích, người nghệ sĩ dân gian nhìn sâu vào những quan hệ trong đời sống con người. Có thể là quan hệ của những thành viên trong gia đình (anh chị và em út, cô và cháu, dì ghẻ và con chồng ...); quan hệ của những người trong xã hội (địa chủ và nông dân, người giàu và người nghèo, vua quan và nhân dân...). Truyện cổ tích Việt Nam là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh một số chủ đề như nhân vật tài giỏi, nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người có hình dạng xấu xí, người thông minh, người ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về các con vật nói năng và hoạt động như con người. Những đề tài, chủ đề trong truyện cổ tích thường đề cập tới những vấn đề sau phổ biến như sau:

- Phản ánh và lý giải những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình và xã hội

- Lý tưởng xã hội thẩm mỹ của nhân dân:

- Triết lý sống, đạo lý làm người và ước mơ công lý của nhân dân

Dù đề cập tới những nội dung khác nhau, song cổ tích luôn phản ánh hiện thực cuộc sống của nhân dân và những ước mơ của họ. Làm nên sức sống của cổ tích cũng chính vì hai mảng màu đỏ. Truyện cổ tích không chỉ phản ánh những “cái đang có, hiện có mà còn những cái có thể có”.

2.3.3. Thời gian trong truyện cổ tích Việt Nam

Thời gian trong truyện cổ tích mang tính phiếm chỉ. Tất cả những truyện cổ tích đều thuộc về quá khứ, cái quá khứ chỉ được nhắc đến trong một quán ngữ “ngày xửa ngày xưa" mà không ai biết cụ thể đó là thời gian nào. Mở đầu đã vậy, diễn biến của câu chuyện cũng được diễn ra trong những thời gian không xác định như hôm sau, ít lâu sau,... Thời gian trong truyện cổ tích dân gian không vận động, không biến đổi, là thời gian khép kín. Nói như vậy bởi, thời gian cổ tích không vượt ra ngoài thời gian của truyện kể. Khi câu chuyện kết thúc cũng là lúc thời gian chấm hết, không có gì xảy ra trước khi câu chuyện được kể và cũng không có bất kỳ dự báo nào cho tương lai khi câu chuyện kết thúc.

2.3.3. Không gian trong truyện cổ tích Việt Nam

Cũng như thời gian, trong cổ tích nói chung, không gian mang tính phiếm định, ước lệ. Không gian thường là ở một làng nọ, vùng nọ, vương quốc nọ,...ít khi nói đến một địa danh cụ thể. Nhân vật cổ tích đến các không gian như thế nào không quan trọng mà cái quan trọng là cách thức họ vượt qua nó. Có thể họ xuất hiện tại một không gian mới bằng viên ngọc ước, bó củi thần,... Không gian chủ yếu chỉ được xây dựng như những điểm dừng, những khoảng cách xa như các giai đoạn của nghi lễ. Không gian trong cổ tích, do không mang tính cụ thể, xác định nên không chịu sự gán ghép, đặt để, kết dính với bất cứ một địa phương nào. Nói theo Chu Xuân Diên: “Tính chất quốc tế rõ ràng là một hiện tượng độc đáo nổi bật của truyện cổ tích. Truyện cổ tích có khả năng di chuyển từ dân tộc này sang dân tộc khác, vượt qua mọi ranh giới về ngôn ngữ, về lãnh thổ... của các quốc gia”.

2.3.4. Nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam

Nhân vật trong truyện cổ tích khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, chúng ta có thể hệ thống lại thành ba loại lớn sau đây:

2.3.3.1. Các nhân vật thần kì siêu nhiên

Những nhân vật này tuy không có trong hiện tại nhưng nó lại biểu hiện rất sống động trong niềm tin và trí tưởng tượng của nhân dân: Nhân vật trên thượng giới: Ngọc Hoàng và các thiên thần trong cõi thiên đình như: Thiên Lôi, Nam Tào, Bắc Đẩu, Thiên binh, Thiên tướng... Loại nhân vật này có nguồn gốc từ thần thoại nhưng được cổ tích hóa. Ngọc Hoàng được xem là chúa tể của muôn loài, là người cầm cân nảy mực, khuyến thiện trừng ác tối cao. Xã hội của các thiên thần trên trời do Ngọc Hoàng cai quản cũng được tổ chức tương tự như xã hội trần gian thời phong kiến. Diêm Vương và các âm binh: cõi âm được quan niệm ở trong lòng đất. Diêm Vương có quyền xét xử linh hồn người chết. Người có công đức thì được lên cõi trời, được đầu thai, kẻ có tội phải xuống địa ngục và bị hành hình tùy theo tội trạng. Vua Thủy Tề (hay Long Vương) và các thủy thần: đây là loại nhân vật bắt nguồn từ thần thoại Việt nhưng được cổ tích hóa và phát triển đa dạng hơn. Người Việt do làm ăn, sinh sống gắn với sông nước nên trong truyện kể của họ hay xuất hiện các nhân vật thủy thần. Có những thủy thần gieo tai họa cho người nhưng cũng có những thủy thần giúp đỡ con người và trong nhiều trường hợp con người cứu vớt thủy thần và được thủy thần trả ơn.

Tiên, Bụt (hay Phật) và các nhân vật siêu nhiên thần kì khác như Chim Thần, Trăn Tinh, Hồ Tinh, ma, quỷ... Loại nhân vật này không có nơi chốn cố định mà thường ở những khu vực đặc biệt trong cõi trần như núi cao, rừng rậm, hang động... Loại nhân vật này đa dạng và có thể chia làm hai bộ phận đối lập: nhân vật cứu giúp con người, trừng trị kẻ ác tiêu biểu là bụt, tiên và nhân vật yêu quái thù ghét và hãm hại con người như Trăn Tinh, Hồ Tinh, Hùm Tinh,...

2.3.3.2. Các nhân vật là người

Bao gồm nhiều loại nhân vật thuộc các giới tính, các lứa tuổi, các nghề nghiệp phổ biến, các thành phần giai cấp khác nhau trong xã hội người Việt thời kì Hùng Vương dựng nước đến cuối thời kỳ phong kiến tự chủ (trước Cách mạng tháng tám năm 1945). Đáng chú ý là những loại nhân vật sau đây:

Những người lao động nghèo khổ, lương thiện bị đối xử bất công, phổ biến là những nhân vật mồ côi, những người bề dưới chịu nhiều thiệt thòi nhất trong gia đình và xã hội. Loại nhân vật này thường đóng vai trò chính – nhân vật trung tâm của truyện cổ tích. Các nhân vật bề trên, đàn anh (chị) trong gia đình phụ quyền. Dù xuất thân trong gia đình giàu hay nghèo, họ cũng đều giống nhau ở tính tham lam, độc ác, ích kỷ, coi của hơn người. Các nhân vật giàu có (trưởng giả, phú ông, phú thương...) xuất hiện khá thường xuyên trong truyện cổ tích nhưng ít khi có tên riêng, phần lớn là nhân vật phản diện, tham lam, độc ác. Các nhân vật đế vương, quan lại: hệ thống nhân vật này khá đa dạng, có những nhân vật tốt và cũng có những nhân vật xấu. Những nhân vật đế vương tốt được xây dựng theo quan niệm và mong ước của nhân dân, thường sống giản dị và gần gũi dân chúng. Đây là những nhân vật lí tưởng chỉ có trong niềm tin và sự ước mơ của tác giả cổ tích mà thôi. Tuy nhiên, niềm tin này cũng có cơ sở hiện thực từ những vị vua anh minh trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc Việt.

2.3.3.3. Những nhân vật loài vật

Loại nhân vật này không chỉ xuất hiện trong cổ tích loài vật mà còn xuất hiện nhiều trong cổ tích về người. Hầu hết các loài vật có ở nước ta đều xuất hiện trong cổ tích với những vai trò và tác dụng khác nhau. Sự có mặt của loài vật làm cho cổ tích thêm phong phú, sống động, hấp dẫn và hiện thực hơn. Vai trò của loài vật được thể hiện khác nhau tùy từng truyện. Cách xây dựng và sử dụng các nhân vật loài vật của tác giả truyện cổ tích cũng hết sức phong phú, đa dạng và linh hoạt.


3. Motif trong truyện cổ tích Việt Nam

3.1. Khái niệm motif trong văn học dân gian

Theo giáo sư Trần Đình Sử: “Motif là các đơn vị cố định thể hiện một nội dung nào đó được sử dụng nhiều lần, là một hiện tượng phổ biến không chỉ trong văn học dân gian mà cả văn học viết”. Từ đó, có thể hiểu rằng, motif là đơn vị nhỏ nhất trong tác phẩm văn học dân gian, có khả năng tồn tại độc lập trong nhiều cốt truyện khác nhau.


3.2. Đặc trưng của motif

3.2.1. Tính bền vững

Motif là đơn vị có tính bền vững, ổn định. Motif là những hình mẫu, những công thức, những đơn vị cố định trong tác phẩm, từ đó motif được hình thành trong một quá trình sáng tác lâu dài, được nhiều tác giả khác nhau, nhiều thời đại khác nhau, nhiều cộng đồng khác nhau cùng sử dụng trong tác phẩm của mình. Mà một yếu tố khi đã trở thành một kiểu dạng cố định thì tất nhiên nó mang tính bền vững. Tính bền vững của motif không chỉ được thể hiện ở mặt hình thức mà còn được thể hiện ở ý nghĩa mà nó biểu đạt. Mỗi motif trong quá trình hình thành chứa đựng những quan niệm văn hóa, thẩm mĩ nhất định của tác giả dân gian.

3.2.2. Tính lặp lại

Một yếu tố một bộ phận trong kết cấu của tác phẩm chỉ được gọi là motif khi nó xuất hiện lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều sáng tác. Tuy nhiên không phải bất kỳ yếu tố lặp lại nào cũng đều trở thành motif. Một yếu tố lặp đi lặp lại để trở thành môtíp phải có cái gì đó khắc sâu, gây ấn tượng làm cho người ta nhớ đến, nghĩa là chúng phải có giá trị nghệ thuật nào đó, có hiệu quả thẩm mỹ nhất định nhằm truyền tải những nội dung tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm.

Sự lặp lại của motif không phải là sự lặp lại ngẫu nhiên mà là một tín hiệu nghệ thuật, ở đó ẩn chứa quan niệm thẩm mĩ và triết lí nhân sinh. Vì thế một đặc trưng quan trọng của motif là tính quan niệm. Những tín hiệu nghệ thuật ấy phải chứa đựng những quan niệm văn hóa, biểu hiện một tư tưởng, một triết lí nào đó. Do hình thành qua thời gian, không gian, những tầng quan niệm này tích hợp trong motif, khó nắm bắt, vì thế phải giải mã các lớp văn hóa đó.

3.3. Motif trong truyện cổ tích Việt Nam

Một số motif tiêu biểu trong truyện cổ tích Việt Nam có thể kể đến như: motif hoá thân, motif đền ơn báo oán, motif vật thần trợ giúp, motif kết hôn, motif tái sinh, motif về trời,...

4. Hiện tượng diễn hoá motif trong truyện cổ tích Việt Nam

4.1. Khái niệm diễn hoá motif

Ở mỗi thời đại, xuất phát từ những nhu cầu mới trong nhận thức và phản ánh thế giới thực tại mà con người có những sáng tạo mới cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội và nhu cầu thẩm mỹ. Điều này tạo nên sự biến đổi không ngừng của truyện cổ dân gian nói chung và của truyện cổ tích nói riêng. Sự biến đổi này thực chất là một quá trình sáng tạo và sáng tạo lại truyện cổ tích, nhưng rõ ràng là đối với truyện cổ tích, hầu như không có sự sáng tạo hoàn toàn mới. Rất nhiều truyện cổ tích đã “vay mượn” những motif thần thoại, đưa nó vào những cốt truyện mới tạo ra những tầng nghĩa mới có phần khác xa với tầng nghĩa ban đầu, khiến cho tầng nghĩa ban đầu chỉ còn là những dấu ấn, tàn tích mờ nhạt. Đó là một thực tế hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động của quá trình sáng tạo tác phẩm tự sự dân gian. Sự biến hóa, biến đổi hay phát triển ấy có thể gọi là diễn hóa. Thực tế cho thấy “diễn hóa mô típ là sự tồn tại, vận động và biến hóa của từng mô típ trong từng thời kỳ, thời đại lịch sử của từng dân tộc, từng vùng cũng như trong toàn bộ lịch sử của dân tộc, khu vực và toàn thế giới.”

4.2. Đặc điểm hiện tượng diễn hoá motif trong truyện cổ tích Việt Nam

Với truyện cổ tích, sự diễn hóa mô típ diễn ra ở cả hai bình diện: thời gian và không gian. Có không ít mô típ thần thoại, ví dụ như mô típ dũng sĩ diệt thú dữ đã chuyển hóa vào truyện cổ tích, trở thành mô típ dũng sĩ diệt rắn ác, chim ác rất đặc trưng của kiểu truyện dũng sĩ (Thạch Sanh – Việt; Chàng Sính – H’mông; Chau Sanh Chau Thông – Khơ me...). Có thể nhận ra ở hình tượng nhân vật Thạch Sanh, chàng Sính, Chau Sanh... bóng dáng của chàng Quải, Lương Vung, Giàng Do bắn rơi mặt trời... trong thần thoại, hình ảnh của Lạc Long Quân giao tranh với Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh hay ông Hộ, ông Đống diệt thuồng luồng... trong truyền thuyết. Sự kế thừa và chuyển hóa từ mô típ thần thoại đến truyện cổ tích đã làm nên hình tượng nhân vật dũng sĩ với sức khỏe và hành trạng phi thường. Ở đây, xung đột giữa con người với tự nhiên (thuộc tính của thời đại thần thoại) đã được chuyển hóa thành xung đột giữa con người với con người (thuộc tính của thời đại truyện cổ tích) và hình tượng dũng sĩ diệt quái vật, cứu người đẹp đương nhiên đã khác xa với hình tượng dũng sĩ diệt thú dữ trước đó trong thần thoại.

4.3. Nguyên nhân hiện tượng diễn hoá motif trong truyện cổ tích Việt Nam

Quá trình giao lưu văn hóa là nguyên nhân chính cho sự diễn hóa của các mô típ trong truyện cổ tích. Việt Nam vốn là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á. Từ hàng ngàn đời, Việt Nam đã tiếp nhận những yếu tố văn hóa bên ngoài kết hợp với văn hóa bản địa, tạo nên nét văn hóa dân tộc đặc sắc và ngược lại văn hóa Việt Nam chắc chắn cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới văn hóa của các quốc gia láng giềng. Các dân tộc, các cộng đồng người hội tụ với nhau trong cùng một khu vực, một không gian sinh sống tất yếu sẽ có sự giao lưu văn hóa. Sự giao lưu này bao gồm cả sự tiếp nhận và tiếp biến văn hóa. Không phải ngẫu nhiên, người ta tìm thấy rất nhiều mô típ truyện cổ Việt Nam có mối tương đồng với truyện cổ Đông Nam Á. Sự gần gũi về điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa, lịch sử là cơ sở tạo nên sự tương ứng trong tâm lý sáng tạo, ý thức tư tưởng và quan niệm nghệ thuật của người nghệ sĩ dân gian các dân tộc. Các mô típ cấu thành nên kiểu truyện dũng sĩ, người con riêng, người mang lốt... là những hiện tượng rất phổ biến cho sự diễn hóa mô típ trong truyện cổ tích của Việt Nam và Đông Nam Á.

Ngoài ra, Việt Nam còn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những nền văn hóa lớn ở Châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ. Những mô típ trợ thủ thần kỳ, mô típ hóa thân... hẳn đã được sáng tạo dưới ánh sáng của các loại tôn giáo như Phật giáo, Đạo giáo... đã từng được du nhập và rất phổ biến ở Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Sự xuất hiện của ông bụt, ông tiên đã được dân gian hóa hay sự hóa thân nhiều kiếp của nhân vật truyện cổ tích đã phần nào khẳng định điều này. Chỉ xét riêng ở Việt Nam, cùng với sự góp mặt của 54 dân tộc mà địa bàn cư trú trải rộng trên khắp đất nước, cũng đã thấy được sự thống nhất và đan xen các yếu tố văn hóa. Thống nhất nhưng vẫn khác biệt, đó là điều lý thú của quy luật tiếp biến văn hóa. Có thể kể ra vài chục truyện kiểu như Tấm Cám trong truyện cổ tích của các dân tộc với những mô típ cùng loại hình. Ví như mô típ biến hóa là mô típ hạt nhân trong tất cả các truyện nhưng quy luật của sự diễn hóa đã khiến cho mô típ này trong truyện kể của mỗi dân tộc lại có sự thay đổi. Cô Tấm (Tấm Cám - Việt) hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, cây thị (quả thị); Gầu Nà (Gầu Nà – H’mông) hóa thành chim, cây bương, tro, nhẫn; Ú (Ú và Cao - H’rê) hóa thành chim, cây cà, cây cam,...


Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp, tính chất song trùng của các mô típ chưa hẳn đã là hệ quả của sự giao lưu vì khoảng cách địa lý quá lớn, giữa các dân tộc không có sự gần gũi giao lưu về văn hóa, mà vẫn có những mô típ giống nhau. Sự giống nhau ngẫu nhiên đó chỉ có thể giải thích bằng nguyên nhân nội sinh. Các dân tộc ấy có thể đã từng có cùng kiểu tư duy, tín

ngưỡng, tổ chức xã hội... nên có cùng một lời giải đáp cho những vấn đề mà họ đã gặp trong cuộc sống.

4.4. Tác động của hiện tượng diễn hoá motif đến truyện cổ tích Việt Nam

Có những mô típ giống nhau xuất hiện ở các dân tộc khác nhau, các khu vực khác nhau. Sự giống nhau ấy có thể được giải thích bởi nhiều nguyên nhân, mà trước hết phải kể đến sự tương đồng về đời sống kinh tế, sinh hoạt vật chất, điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh xã hội ở các dân tộc khác nhau. Bên cạnh đó, sự vận động của các mô típ giúp ta nhìn nhận rõ nét hơn những dấu ấn và biến đổi của các hình thái xã hội. Bởi lẽ, mô típ của truyện cổ dân gian nói chung “là hình thái ý thức của một thời đại nhất định. Nó là con đẻ của thời đại, nó cũng là tấm gương phản ánh thời đại” (Nguyễn Bích Hà 1998:34). Chẳng hạn như mô típ phân chia gia tài trong kiểu truyện người em (Cây khế, Hà rầm hà rạc – Việt; Cối xay thần – Khơ me, Giả chết chết thật – H’mông... ). Sự hiện diện của mô típ này trong truyện kể về người em út bất hạnh đã chứng tỏ sự thay đổi trong nguyên tắc nhận thức của con người về vấn đề thừa kế ở mỗi giai đoạn xã hội nhất định. Trước đây, con người sống tương đối bình đẳng trong một cộng đồng lớn, vấn đề tư hữu là cái mà chưa bao giờ họ quan tâm. Về sau cùng với sự xác lập chế độ phụ hệ, chế độ sở hữu cá nhân cũng dần hình thành. Việc tách ra khỏi gia

đình lớn để ở riêng của các cá nhân, kéo theo việc phân chia gia tài với mục đích đảm bảo quyền lợi của bản thân đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát sinh chế độ minôrat (đứng về phía người em) và chế độ maiôrat (đứng về phía người anh) trong việc phân chia gia tài. Tuy nhiên, về bản chất, luật minôrat với việc người em út thừa kế gia tài chưa phải là chế độ tư hữu thực sự. Trái lại, luật maiôrat cùng với nguyên tắc đề cao người lớn tuổi đã thể hiện sự bất bình đẳng trong việc khẳng định quyền thừa kế gia tài, biến người em thành con người nghèo khổ, bất hạnh còn người anh luôn được dành những đặc quyền to lớn. Sự bất bình đẳng này diễn ra trong quá trình biến đổi từ gia đình mẫu hệ sang gia đình phụ hệ, với việc khẳng định vai trò và vị thế của người cha và người anh trai trưởng trong gia đình.


Không khó để nhận ra trong “truyện cổ tích còn lưu giữ lại những dấu tích của các hình thức đã mất đi của cuộc sống xã hội” (Propp, 2003). Những “dấu tích” ấy cùng với thời gian đã bị phủ lên những lớp lịch sử mới, phù hợp với yêu cầu và nhu cầu sáng tạo của nhân dân. Vì vậy, tìm hiểu sự diễn hóa mô típ trong truyện cổ tích thực chất là tìm về nguồn gốc, căn rễ lịch sử của mô típ đó cùng với sự vận động của nó qua từng thời đại. Mô típ sinh đẻ thần kỳ trong kiểu truyện người mang lốt (Sọ Dừa – Việt, Chàng rùa – Khơ mú, Chàng cóc con - Tày...) là một ví dụ. Ở đây, nhân vật mang lốt chủ yếu xuất hiện từ một “quan hệ có tính chất thần thoại” (chữ dùng của K. Mác). Sự hư cấu mang màu sắc hoang đường này chịu sự chi phối đậm nét của thế giới quan thần thoại đồng thời chứa đựng dấu ấn một giai đoạn xã hội nhất định. Đây là thời kỳ công xã nguyên thủy, khi mà hình thức quần hôn tạp hôn của chế độ thị tộc mẫu hệ đang ngự trị một cách chính thống. Lúc này đứa con được sinh ra chỉ cần biết đến mẹ mà không cần biết đến cha. Cho nên vai trò của người cha trong quá trình thực hiện chức năng sinh sản rất mờ nhạt. Trong thần thoại, mô típ sinh nở thần kỳ là một sự hư cấu nhằm thỏa mãn nhu cầu khám phá và lý giải nguồn gốc chính bản thân mình của người nguyên thủy đồng thời thể hiện sự ấu trĩ trong nhận thức của họ khi không giải thích được nguyên nhân sinh sản. Đi vào truyện cổ tích, mô típ này lại gắn với ý nghĩa xã hội, đề cao con người bất hạnh và thể hiện sâu sắc lý tưởng thẩm mĩ của dân gian. Sự biến đổi này, theo nhận xét của tác giả Nguyễn Bích Hà không “diễn ra một cách rõ ràng, phân minh” mà “là một quá trình chuyển đổi toàn diện và chậm chạp, tạo nên hàng loạt sự xe kẽ rất khó tách biệt giữa các yếu tố mang đặc trưng của thể loại này với các yếu tố mang dấu vết của thể loại khác”.

5. Kết luận

Sự diễn hóa của các motif trong truyện cổ tích là hiện tượng diễn ra một cách phổ biến, thường xuyên chứ không phải là cá biệt. Tuy nhiên sự diễn hóa luôn diễn ra theo những quy luật nhất định dưới tác động của lịch sử, xã hội, văn hóa... Quá trình vận động này không chỉ diễn ra trong ngày một ngày hai với một khoảng không gian chật hẹp mà diễn ra trong nhiều thời đại với những khoảng cách địa lý vô cùng rộng lớn. Khám phá sự diễn hóa các motif trong truyện cổ tích, chính là ta đang cố gắng tìm đến những lớp “trầm tích” văn hóa, và làm sao “bóc ra cho được từng tầng lớp của cái khối nham kết phức tạp ấy” để thấy được sự đa dạng của bản thân mô típ và cơ sở lịch sử xã hội của chúng.

 
 
 

Bình luận


bottom of page